ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN LỄ HỘI ĐỀN THÁNH NGUYỄN
Thân thế và sự nghiệp của Quốc sư Nguyễn Minh Không

1. Về thân thế và sự nghiệp của Quốc sư Nguyễn Minh Không
Quốc sư Nguyễn Minh Không là một vị thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam thời nhà Lý. Ông tên thật là Nguyễn Chí Thành quê ở Đàm Gia
Loan (nay là xã Gia Thắng và xã Gia Tiến). Ông là học trò của nhà sư Từ Đạo
Hạnh, sau đó đi tu ở chùa Vân Mộng rồi lại chuyển sang chùa Quốc Thanh (tức
chùa Keo thuộc huyện Giao Thủy ngày nay), với pháp danh là Minh Không nên
người đương thời và sau này gọi ông là Nguyễn Minh Không.
Nguyễn Minh Không là người thông hiểu đạo Phật, kiến thức uyên bác. Đặc
biệt trong dân gian còn lưu truyền việc ông được trời ban cho cả “Thiên y thư”
(sách thuốc của trời) để cứu nhân độ thế. Thực tế ông là người ham học, lại có lòng
nhân từ muốn cứu người nên gắng công tìm hiểu, học hỏi nghề y. Ông đã chữa
bệnh cứu được nhiều người mà không hề lấy công, còn giúp đỡ thêm cho những
người nghèo lâm bệnh trọng qua khỏi bệnh tật, khó khăn.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Minh Không là nhà sư nổi tiếng, có vai trò và
công trạng với triều đình. Năm 1136, vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà
sư Minh Không chữa khỏi cho vua được phong làm Quốc sư.
Nguyễn Minh Không mất năm 1141, thọ 75 tuổi, tại nơi ông tu hành là xã
Hàm Lý, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nhà vua sắc phong là “Phù Vân Quốc sư”.
Không chỉ là một danh y nổi tiếng mà Nguyễn Minh Không còn được mệnh
danh là ông tổ nghề đúc đồng. Ông là người có công lao to lớn, đóng góp hết sức
tích cực vào công cuộc phát triển của dân tộc trên các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo,
chính trị, xã hội. Nhân dân tôn sùng ông là Đức Thánh Nguyễn. Trong lịch sử chỉ
hai người được nhân dân phong Thánh: Nguyễn Minh Không là Đức Thánh
Nguyễn và Trần Quốc Tuấn (tước Hưng Đạo Đại Vương) là Đức Thánh Trần, còn
Thánh Gióng, Thánh Mẫu… là thánh trong chuyện thần thoại.
Vùng đất Gia Thắng, Gia Tiến, Gia Phương hàng trăm năm nay đã có câu
thành ngữ:
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh
Ý nói Đại Hữu (xã Gia Phương ngày nay) sinh ra vua Đinh Bộ Lĩnh, đất
Điềm Dương (nay là xã Gia Thắng, Gia Tiến) sinh ra Thánh Nguyễn Minh Không.

2
Tại xã Hàm Lý - nơi ông tu hành và Điềm Xá, Điềm Giang - quê hương ông
và rất nhiều địa phương nhất là ở Nam Định, Thái Bình, Hà Nam... lập đền thờ
ông. Theo thống kê chưa đầy đủ, có tới 75 nơi có đền thờ, riêng ở Ninh Bình, có 24
nơi thờ ông, Gia Viễn có 17 di tích thờ (chiếm 70,8% các di tích thờ Thánh
Nguyễn trên địa bàn tỉnh). Ngoài ra, ở Thái Bình còn có lễ hội La Vân (xã Quỳnh
Hồng, huyện Quỳnh Phụ), vào ngày 20/6 Âm lịch hàng năm và hội Chùa Keo (xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Thái Bình) cũng là những lễ hội tưởng nhớ Nguyễn
Minh Không.
2. Về đền thờ Quốc sư Nguyễn Minh Không
Dù ở cương vị Quốc sư của một nước nhưng Thiền sư Nguyễn Minh Không
không màng chốn kinh thành hoa lệ mà trở về nơi cảnh thiền tĩnh tuệ vừa tu tập vừa
truyền đạo đồng thời dốc lòng nghiên cứu trồng cây thuốc Nam để trị bệnh cho nhân
dân. Khoảng năm 1121, Nguyễn Minh Không đã về quê Đàm Xá xây dựng một ngôi
chùa nhỏ thờ Phật, tên là Viên Quang (Viên Quang tự). Khi Nguyễn Minh Không
mất, nhân dân Đàm Xá tôn tạo ngôi chùa đó thành đền thờ Ngài (Đền Thánh Nguyễn
ngày nay ở xã Gia Thắng và xã Gia Tiến).
Đền tọa trên mảnh đất dài 100m, rộng hơn 40m, với tổng thể kiến trúc khá quy
mô xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”, ngôi đền được quay hướng Nam,
hướng về cố đô Hoa Lư nên được xem như là một di tích thuộc “Hoa Lư tứ trấn”.


Các công trình kiến trúc của đền được bố trí trục dọc đăng đối theo đường thần đạo,
là điển hình kiến trúc của thời Hậu Lê, hệ thống tường bao chạy dài dọc theo hướng
Bắc Nam theo lối Thượng thu hạ thách, che chắn cho các công trình kiến trúc trùng
trùng lớp lớp theo chiều sâu vừa hài hòa vừa trang nghiêm. Vào đền theo 2 hướng
Đông Tây có 2 cột cờ 2 bên cao vút.
Đầu tiên là Vọng Lâu với kiến trúc theo kiểu 2 mái 3 gian, tường hồi bít đốc,
mái lợp ngói mũi, được xây dựng trên nền chùa Viên Quang tự mà Nguyễn Minh
Không đã lập vào năm 1121. Mặt trước Vọng Lâu đắp “Lưỡng long chầu nguyệt”,
mặt sau đắp “Phượng hàm thư” là hai chim phượng ngậm cuốn thư. Vọng Lâu kiến
trúc mở nên không có các cánh cửa. Mặt trước và mặt sau đều có những bức Hoành
phi và câu đối.
Hai bên hồi của Vọng Lâu, bên trái là cây sách, bên phải là cây đèn đá đều là
hình lục giác cao hơn 1m đặt trên bệ đá hình tứ giác, là biểu tượng của trí tuệ.
Huyền thoại kể rằng cây đèn tự nhiên mọc lên, Nguyễn Minh Không đêm đêm
ngồi bên cây đèn thắp sáng thiền định, đọc sách và chiêm nghiệm. Các loài chim,

3
loài thú về chầu xung quanh, ánh sáng cây đèn chiếu sáng tận tầng mây trên không
chính vì thế nhân dân quanh vùng tôn hiệu ông là Thiền sư Minh Không.
Tiếp đến là sân gạch (sân chầu) có hai lối vào đền qua hai cổng Đông Tây.
Phía Đông và phía Tây sân gạch là hai dãy nhà Giải Vũ. Sử sách ghi lại, trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nơi đây đã từng là nơi dạy trẻ học chữ, học
sách thánh hiền, gắn liền với truyền thống hiếu học của quê hương Gia Viễn và là
nơi đầu tiên kéo cờ đỏ sao vàng trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Gia
Viễn.
Đền Thánh Nguyễn có bốn tòa kiến trúc theo kiểu “tiền nhất hậu công”. Tiền
Bái 5 gian có bốn hàng cột, vì kèo theo kiểu “Thượng rường hạ kẻ”. Mái lợp bằng
ngói ta không có mấu, mũi lượn tròn, phía dưới là ngói chiếu. Trong Tiền Bái có 5
bức cửa võng ở cả 5 gian đều được sơn son thếp vàng, chạm lưỡng long chầu
nguyệt và tứ linh rất sinh động. Gian giữa trên cao ở phía ngoài có cuốn thư chạm
khắc 4 chữ Hán “Thiên Khải Thánh sinh” (có nghĩa là Trời sinh ra Thánh). Phía
trong treo bức đại tự “Tối Linh Từ” (Đền tối linh thiêng). Các gian bên để đồ tế
khí, long đình và hai cái trống đại. Các cột trong Tiền bái đều được treo nhiều câu
đối ca ngợi công đức của Nguyễn Minh Không.
Tiếp theo là Tòa đệ nhị gọi là tòa Đại Bái, vì kèo cũng theo kiểu chồng rường,
đôi xà cổ ngỗng giống với xà cổ ngỗng ở đền thờ vua Đinh ở Cố đô Hoa Lư. Kiến
trúc mang đậm kiến trúc dân gian độc đáo, hai mái giao nhau rất khớp về độ cao,
ăn ý, hài hòa với nhau. Hai tòa đệ nhất và đệ nhị liền nhau tạo cho Tiền Bái có một
không gian rộng và sâu.
Sau đó là Thiêu Hương có 3 bộ vì tạo thành 2 gian, dọc theo kiểu nhà ống
muống, có 4 hàng chân cột. Trong Thiêu Hương để các long đình thờ. Đây cũng là
nơi bày đồ tế lễ của nhân dân khi vào đền. Trong cùng là Chính tẩm năm gian, làm
theo kiểu chồng rường, các cột, vỉ kèo được chạm khắc theo phong cách nghệ thuật
điêu khắc thế kỷ thứ XVII.
Gian giữa Chính tẩm có bài vị thờ Nguyễn Minh Không. Sau bài vị là bát
hương bằng đồng, rồi đến tượng Nguyễn Minh Không bằng đồng thếp vàng ngồi
trong tư thế thiền định của nhà Phật. Gian phía Đông của Chính tẩm có ban thờ bài
bị Khải Thánh (thờ cha mẹ Nguyễn Minh Không). Gian phía Tây có ban thờ bài vị
Tô Hiến Thành, người có tính cương trực, trọng nghĩa, khinh tài, một lòng trung
thành vì dân, vì nước. Theo truyền thuyết thì Tô Hiến Thành chính là đứa con cầu
tự tại Đền Thánh Nguyễn nên khi Tô Hiến Thành mất, vua Lý Cao Tông đã quyết
định cho phối thờ Tô Hiến Thành ở đền thờ Nguyễn Minh Không.

4
Hai bên Đông Tây đền là hai dãy nhà trù (ngày nay là khu Tiền tế Đông, tiền
tế Tây), phía Đông còn có ba gian nhà thờ Quan Giám sát. Phía sau Chính tẩm của
đền là gác chuông với hai tầng, tám mái, theo kiểu chồng diêm, được xây dựng
toàn bằng gỗ lim. Gác chuông 8 mái theo kiểu chồng diêm. Theo văn bia ký ở đây
cho biết ông Bùi Văn Khuê tức Mỹ Quận công ở Tri Phong, là tướng của triều Lê,
năm 1644, đã cho dỡ lầu “Ngưng Bích” của nhà Mạc ở Cao Bằng đem về đây dựng
lập thành gác chuông chùa. Gác chuông 3 gian, 4 hàng cột gồm 16 chiếc, treo một
quả chuông nặng gần một tấn, cao 1,6m, đường kính miệng 0,8m.
Đền Thánh Nguyễn còn giữ được nhiều hiện vật cổ có giá trị như: cây đèn đá,
cột kinh, các văn bia đá cổ thời Lê và Nguyễn, sóc đá, gạch trang trí hoa văn thời
Lê, hai chân tảng bằng đá thời Lý – Trần, các nhang án, khám thờ thời Lê, 51 sắc
phong thời Lê và Nguyễn… Đây là những tài sản văn hóa vô giá, góp phần nghiên
cứu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Toàn cảnh khu đền là
một công trình kiến trúc, điêu khắc đăng đối, hoành tráng theo lối kiến trúc chủ
yếu của thế kỷ thứ XVII do bàn tay khéo léo của con người tạo nên, hòa nhập với
núi sông, mây trời ở vùng đất Cố đô Hoa Lư tạo thành một tác phẩm nghệ thuật
độc đáo. Đền Thánh Nguyễn đã được công nhận “Kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc
gia năm 1989.
3. Về lễ hội Đền Thánh Nguyễn
Lễ hội đền Thánh Nguyễn là một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất của
Gia Viễn, được tổ chức để tưởng nhớ và tri ân đức Thánh Nguyễn Minh Không. Lễ
hội được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 (Âm lịch). Người dân làng Điềm
còn truyền lại câu ca dao:
Ai là con cháu làng Điềm
Làm ăn cư trú khắp miền gần xa
Nhớ ngày sinh Thánh làng ta
Về dự lễ hội ông cha lưu truyền
Thời gian lễ hội được tổ chức vào mùa xuân vì theo quan niệm dân gian mùa
xuân là mùa của vạn vật sinh sôi nảy nở, con người như được tiếp thêm sức mạnh,
khí thế mùa xuân. Lễ hội diễn ra tại đền Thánh Nguyễn, ngoài ra còn được mở
rộng ra các nghè miếu của hai xã Gia Thắng và Gia Tiến. Trước ngày lễ hội chính
thức các nghè miếu kéo cờ, trang trí khuôn viên, trang trí kiệu để rước bài vị từ
nghè miếu về Đền Nguyễn vào sáng ngày 8 tháng 3, sau khi kết thúc lễ hội các
nghè miếu rước sắc, bài vị, rước kiệu về làm lễ yên vị tại nghè miếu. Không gian

5
các nghè miếu ở các thôn xóm là không gian thứ hai của lễ hội. Phần hội tổ chức
nhiều trò chơi dân gian, thu hút sự tham gia đông đảo của nhân dân trong vùng và
khách du lịch thập phương.
Đền Thánh Nguyễn và đền Vua Đinh cùng nhiều đền, đình, miếu trên địa bàn
huyện Gia Viễn là những công trình thấm đẫm tính lịch sử, tính văn hóa nghệ
thuật, tính tâm linh. Thân thế sự nghiệp của các bậc đế vương, bậc thánh, của các
quan tướng, người có công được ghi danh sử sách; các công trình đó thể hiện bản
sắc văn hóa của con người và vùng đất Gia Viễn; một số người được tôn vinh là
thần thánh được nhân dân tôn thờ, thân thế và sự nghiệp được thần thoại hóa, được
lưu truyền thành truyền thuyết theo dòng chảy lịch sử. Trong đó, Nguyễn Minh
Không được tôn vinh là thần, là thánh, là phật và là tiên qua câu đối ở đền Đức
Thánh Nguyễn, tạm dịch là:
Là Thánh, là Thần, đạo giúp được vua, danh ở sử
Chính Tiên, chính Phật, ơn ban cùng đế, phúc trong dân
Thân thế, sự nghiệp của Đinh Tiên Hoàng đế, của Đức Thánh Nguyễn Minh
Không và nhiều nhân vật lịch sử huyện Gia Viễn là tấm gương ngời sáng để nhân
dân Gia Viễn, nhất là thế hệ trẻ học tập và làm theo gắn với nội dung học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY GIA VIỄN
.

  • Từ khóa :
BẢN ĐỒ TP NINH BÌNH

Tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập