Tội phạm mua bán người đã trở thành một vấn nạn, gây bức xúc trong
toàn xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn thế giới. Trực tiếp xâm
hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người mà đối tượng tác
động chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
Đối tượng của tội phạm mua bán người có thể là người lạ, bạn bè
hoặc người quen, thậm chí cả người thân. Thủ đoạn hoạt động của bọn chúng
thường là: Hứa hẹn giới thiệu việc làm nhàn hạ, có thu nhập cao. Núp dưới hình
thức đi du lịch, xuất khẩu lao động, du học theo các tổ chức lừa đảo ở trong
nước hoặc nước ngoài. Hứa hẹn giúp đỡ những phụ nữ lầm lỡ hoặc có hoàn cảnh éo
le, khó khăn về kinh tế để môi giới, lừa bán trẻ sơ sinh hoặc trẻ còn trong bào
thai; Lợi dụng hoàn cảnh khó khăn giúp đỡ về tiền bạc rồi đẩy họ vào con đường
sa ngã hoặc bị lệ thuộc vào chúng; Làm quen với những phụ nữ có con nhỏ, lợi
dụng họ sơ hở để chiếm đoạt con và dùng giấy tờ giả mạo để đem bán.
Hậu quả với nạn nhân: Bị bóc lột sức lao động, làm những công việc
nặng nhọc, quá sức; Bị hành hạ đánh đập tàn nhẫn; Bị thương tích, tàn phế suốt
đời, thậm chí tử vong; Bị cưỡng bức, bóc lột tình dục…; Có nguy cơ bị mắc các
bệnh lây truyền tình dục, HIV/AIDS, Bị tước mất quyền công dân và quyền con
người; Tinh thần suy sụp, lo âu, sợ hãi; Mặc cảm, bi quan, mất niềm tin vào
cuộc sống; Khó hoà nhập với cuộc sống và cộng đồng; Dễ sa vào các tệ nạn xã hội
hoặc trở thành kẻ buôn bán người.
Đối với gia đình: Tốn kém tiền bạc, thời gian và sức lực để tìm
kiếm người thân; Hạnh phúc bị tan vỡ, con cái thiếu sự quan tâm, chăm sóc, dạy
dỗ; Các thành viên trong gia đình sống trong lo âu, mặc cảm; Người thân đi tìm
người nhà dễ có nguy cơ trở thành nạn nhân.
Đối với xã hội: Gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội; Làm
thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế; Tăng gánh nặng kinh tế
trong địa phương trong việc giải quyết hậu quả của nạn buôn người.
Trước những thủ đoạn nguy hiểm của tội phạm mua, bán người, Chính
phủ đã xây dựng những chính sách, hành lang pháp luật cho công tác phòng, chống
đấu tranh trấn áp loại tội phạm này, đặc biệt Luật phòng, chống mua bán người
được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/3/2011, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/1/2012. Đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện pháp
luật liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó có nội dung mua
bán người; tạo cơ sở pháp lý cho việc huy động sức mạnh của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người.
Luật phòng, chống mua bán người dành toàn bộ Chương II gồm 12 điều
để quy định về việc phòng ngừa mua bán người, có thể chia làm hai nhóm:
Nhóm thứ nhất gồm 05 điều (từ Điều 7 đến Điều 11) quy định về các
biện pháp phòng ngừa chung, bao gồm: Thông tin, tuyên truyền, giáo dục về
phòng, chống mua bán người. Mục đích nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của
cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và cộng đồng đối với công tác phòng, chống
mua bán người, về mối hiểm họa của mua bán người, từ đó đề cao cảnh giác, tích
cực phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống mua bán người, chống kỳ thị, phân
biệt đối xử với nạn nhân bị mua bán. Tư vấn về phòng ngừa mua bán người. tiến
tới loại trừ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến nguy cơ mua bán người. Để góp
phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý an ninh, trật tự
nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa mua bán người, Điều 9 của Luật PCMBN xác định
rõ 07 nhóm biện pháp để quản lý về an ninh, trật tự. Xuất phát từ nhận thức có
một số lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ rất nhạy cảm, dễ có nguy cơ bị lợi dụng để
mua bán người, Điều 10 của Luật PCMBN xác định rõ phải quản lý, kiểm tra thường
xuyên, chặt chẽ đối với các hoạt động hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài, cho, nhận con nuôi, giới thiệu việc làm, đưa người Việt
Nam đi lao động, học tập ở nước ngoài, tuyển dụng người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam, dịch vụ văn hoá, du lịch và các hoạt động kinh doanh, dịch vụ có điều
kiện khác dễ bị lợi dụng nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn việc lợi dụng các
hoạt động này để mua bán người.
Nhóm thứ hai gồm 07 điều (từ Điều 12 đến Điều 18) quy định về các
biện pháp phòng ngừa thông qua hoạt động của các tổ chức, cơ sở hoạt động kinh
doanh, dịch vụ; nhà trường và các cơ sở giáo dục, đào tạo; cơ quan thông tin
đại chúng; sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận cũng
như sự tham gia của cá nhân và gia đình trong công tác phòng ngừa mua bán
người, cụ thể: Mỗi cá nhân, gia đình có vai trò quan trọng, từng cá nhân phải
tự ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc phòng ngừa để không trở thành
nạn nhân bị mua bán, đồng thời, cũng cần có trách nhiệm trong việc phòng ngừa
tội phạm này, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, giúp đỡ họ ổn định cuộc sống. Do đó,
Điều 12 của Luật PCMBN quy định cá nhân tham gia các hoạt động phòng ngừa mua
bán người; kịp thời báo tin, tố giác, tố cáo với cơ quan có thẩm quyền những
hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người. Học sinh, sinh viên là
một trong những đối tượng mà công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về
phòng, chống mua bán người hướng trọng tâm đến. Điều 14 của Luật PCMBN xác định
việc nhà trường, cơ sở giáo dục đào tạo tham gia tích cực vào công tác phòng
ngừa mua bán người nói chung và công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nói
riêng là hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, bọn tội phạm thường lợi dụng sơ hở trong một
số lĩnh vực hoạt động để mua bán người như: hỗ trợ kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài; nhận con nuôi, giới thiệu việc làm, đưa người đi lao
động, học tập ở nước ngoài, tuyển dụng người nước ngoài làm việc tại Việt Nam,
dịch vụ văn hoá, du lịch...vì thế, để ngăn ngừa có hiệu quả việc mua bán người,
Điều 15 của Luật PCMBN quy định về việc phòng ngừa mua bán người trong các tổ
chức, cơ sở hoạt động kinh doanh, dịch vụ.
Cơ quan thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong công tác
thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống mua bán người, nó tác động
trực tiếp tới ý thức của từng người dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và mua bán người nói riêng. Điều 16 của Luật PCMBN quy định cơ
quan thông tin đại chúng có trách nhiệm đưa tin kịp thời, chính xác các thông
tin liên quan đến lĩnh vực phòng, chống mua bán người.
Cùng với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể xã hội cũng đóng vai
trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người, đặc biệt là
trong công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, tư vấn về phòng, chống mua
bán người cũng như công tác hỗ trợ nạn nhân. Vì vậy, để ghi nhận vài trò của
các đoàn thể xã hội cũng như tạo cơ chế pháp lý để các đoàn thể tham gia tích
cực. Luật PCMBN đã có quy định về sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, đặc biệt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong công
tác phòng ngừa mua bán người.
Để phòng, chống tệ nạn tệ nạn buôn bán người, mỗi người dân đặc biệt
là phụ nữ và trẻ em hãy cảnh giác với những người không quen biết, không được
tự ý bỏ theo người khác mà không báo cho gia đình, cần cân nhắc và thảo luận
với cha mẹ, người thân trước khi đi tìm việc, cần được biết địa chỉ, số điện
thoại nơi mình đến và phải có cam kết lao động được chính quyền tại địa phương
công nhận.
Tích cực phòng chống nạn mua, bán người, mỗi người dân hãy cùng
đoàn kết, hành động vì sự an toàn của mỗi người, mỗi gia đình, vi tương lai tốt
đẹp của toàn xã hội.
Nguồn sưu tầm.