Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho
người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản, các chế định về vấn đề thừa
kế do Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ Luật dân sự năm 1995, Bộ Luật dân sự năm
2005 luôn là một trong những các vấn đề gây tranh cãi do xung đột quyền lợi
giữa các bên tham gia quan hệ luôn là đề tài nóng của pháp luật khi xử lý, giải
quyết các tranh chấp phát sinh của các bên tham gia tố tụng. Tuy nhiên cho đến
Bộ luật dân sự năm 2015 chế định về thừa kế đã cơ bản cụ thể, rõ ràng, chặt
chẽ, được thể hiện qua các vấn đề sau:
1. Về
thời điểm, địa điểm mở thừa kế
Theo
qui định tại Điều 611 Bộ Luật dân sự 2015 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết, thì
thời điểm mở thừa kế là ngày mà Tòa án xác định người đó đã chết. Nếu không xác
định được chính xác ngày chết của người đó thì ngày bản án tuyên bố một người
đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày mà người đó chết.
Địa
điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác
định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có tòan bộ hoặc
phần lớn di sản;
Việc
xác định thời điểm, địa điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế
và đóng vai trò rất quan trọng. Vì tại thời điểm và địa điểm này sẽ xác định
được người thừa kế của người chết, di sản mà người chết để lại, xác định Tòa án
có thẩm quyền thụ lý, nơi thực hiện nghĩa vụ cũng như thời hiệu khởi kiện về
quyền thừa kế, đồng thời việc xác định chính xác địa điểm mở thừa kế còn đóng
vai trò quan trọng khi xác định việc từ chối nhận di sản có hợp pháp hay không.
2. Về
người thừa kế.
Người
thừa kế gồm có người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Theo
đó người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
Hàng
thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;
Hàng
thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
Hàng
thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những
người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau, những người ở hàng
thừa kế chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã
chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối
nhận di sản .
Tuy
nhiên trong một số trường hợp kể cả thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật,
thì những người sau đây không có quyền được hưởng thừa kế: Bị kết án về hành vi
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành
hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. Bị kết án về hành
vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ phần
di sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng. Người có hành vi lừa dối, cưỡng
ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa
di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ di sản trái với ý muốn
của người để lại di sản. Nhưng những người có hành vi này vẫn được hưởng di
sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ
hưởng di sản. Như vậy: người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức.
Trường hợp người thừa kế là cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết. Người thừa kế theo di chúc là cơ
quan, tổ chức, thì cơ quan, tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo
quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015: “Người thừa kế có quyền từ
chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác; Việc từ chối nhận di sản phải
được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết; Việc từ chối nhận di
sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”.
3. Di
sản thừa kế
Theo
quy định tại Điều 612 di sản bao gồm: Tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản: tài sản bao gồm bất động sản và
động sản, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai. (Điều 105).
Vậy
quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản, di sản còn bao gồm cả các quyền
tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá
trị, quyền sử dụng nhà thuê của nhà nước. Mặt khác, di sản thừa kế
không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người có
tài sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản, thì thông thường phần nghĩa vụ
này sẽ được thanh tóan bằng tài sản của người chết (1, Điều 615.
Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.).
Phần còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được chia theo di chúc hay
quy định của pháp luật. Theo đó, nghĩa vụ của người chết được thực hiện như
sau: Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã
nhận. Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những
người thừa kế.
Trong
trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì cũng phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
4. Di
chúc.
Điều
624 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Di
chúc phải được lập thành văn bản, trong trường hợp tính mạng của một người bị
cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc
bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng, Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp,
nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai
người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký
tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người để lại
di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ. Trong
trường hợp di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; Di chúc của người
bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng
lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Di chúc bằng văn bản
bao gồm: 1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản
có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có công chứng; Di chúc bằng văn bản có
chứng thực.
Tuy
nhiên, một di chúc dù bằng văn bản hay bằng miệng thì chỉ được coi là hợp pháp
khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: Người lập di chúc đã thành niên, minh
mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa đối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Nội dung di chúc không phải trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.
Nếu
việc lập di chúc có người làm chứng thì người làm chứng không phải là những
người sau: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di
chúc. Người có quyền nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. Người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
5. Thời
hiệu thừa kế.
Theo
qui định tại Điều 623: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế, hết
thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường
hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như
sau: Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định của pháp
luật; Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu.
Thời
hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, thời hiệu yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể
từ thời điểm mở thừa kế.
Trong
thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế, xác định
quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người khác. Hết thời hạn này,
người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về
quyền thừa kế. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính từ thời điểm
bắt đầu của ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và thời
điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày tương ứng 10 năm sau. Tuy nhiên phải
hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di
sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết,… để
bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.
Tóm
lại: Thừa kế là việc chuyển giao tài sản của một người sau khi người này chết
cho những người khác theo qui định của pháp luật. Việc chuyển giao này có thể
thực hiện theo di chúc, nếu người có tài sản đã lập di chúc trước khi chết.
Trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát
sinh được hiệu lực pháp luật, thì việc chuyển giao tài sản sẽ thực hiện theo
pháp luật. Trong trường hợp có tranh chấp về tài sản thừa kế thì người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy
những nội dung cơ bản của chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2015 có
những đặc điểm như sau: Những người tham gia vào quan hệ pháp luật này là những
bên có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau như: Cha, mẹ, con, anh, em v.v,.
hoặc quan hệ hôn nhân như: Vợ chồng và quan hệ nuôi dưỡng như con nuôi. Vì vậy,
để nghiên cứu nhằm áp dụng giải quyết các vụ tranh chấp về quyền thừa kế cần
nắm vững các quy định của pháp luật về thừa kế và phải luôn tôn trọng, đề cao
tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình, đó là truyền thống văn hoá tốt đẹp
của người Việt Nam./.